Nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân được xem là trọng tâm của nền kinh tế nước ta nhưng cũng là bộ phận được đánh giá là dễ bị tổn thương và có nguy cơ phát triển thiếu bền vững nhất. Mặc dù tính bền vững của nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân đã được đánh giá theo nhiều góc độ, ở các cấp độ khác nhau, tuy nhiên các nghiên cứu đều đi đến quan điểm chung đó là nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân là 3 chủ thể không thể tách rời(1). Bởi lẽ, ngành nông nghiệp năng động, phát triển lành mạnh là nền tảng quan trọng của phát triển kinh tế nông thôn trên cơ sở liên kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác(2). Đồng thời, sinh kế của người dân nông thôn nói chung và người nông dân nói riêng cũng sẽ được nâng cao thông qua sự tham gia hiệu quả của cộng đồng vào việc thực hiện các mục tiêu bền vững về kinh tế, xã hội, và môi trường.
Tuy nhiên, dưới tác động của các xu hướng toàn cầu mới (toàn cầu hóa, chuyển đổi số, đô thị hóa và thích ứng với biến đổi khí hậu), việc thực hiện mục tiêu phát triền bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn, và nông dân của nước ta đang gặp phải những thách thức không nhỏ. Bài viết này sẽ đi vào đánh giá thực trạng phát triển bền vững của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân nước ta ở 3 góc độ: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường; từ đó, tìm ra các điểm yếu, tồn tại, khó khăn để đề xuất các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân
Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp không ngừng gia tăng theo thời gian. Như một quy luật tất yếu trong quá trình phát triển, tỷ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm, nhưng nông nghiệp vẫn giữ vững vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn và là trụ cột của nền kinh tế Việt Nam. Nông nghiệp được tập trung phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, có thương hiệu, mang lại giá trị gia tăng ngày càng cao và bền vững (Xem hình 1).
Hình 1: Giá trị và cơ cấu đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp tuy có giảm, nhưng vẫn đạt khá cao, bình quân khoảng 3,27%/năm trong giai đoạn từ 2010 - 2023. Giai đoạn 2016 - 2019 là giai đoạn ngành nông nghiệp đạt mức tăng trưởng thấp nhất (năm 2016 chỉ đạt 1,44% và năm 2019 chỉ đạt 2,01%)(3). Tuy nhiên, từ giai đoạn năm 2019 đến nay, tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp đã không ngừng tăng lên. Đặc biệt là trong và sau giai đoạn dịch COVID-19 diễn ra, nông nghiệp đã chứng tỏ vị thế quan trọng là bệ đỡ của nền kinh tế nước ta với tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao của thế giới (Xem hình 2).
Hình 2: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2010 - 2023
Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước, gắn với nhu cầu thị trường. Theo thời gian, cơ cấu cây trồng của nước ta đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ, theo hướng giảm dần diện tích trồng cây lương thực có hạt và cây công nghiệp hàng năm sang gieo trồng các loại cây trồng khác (cây công nghiệp lâu năm và cây dược liệu, cây ăn quả) hoặc chuyển sang đất nuôi trồng thủy sản nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng đồng thời cũng giảm áp lực lên nguồn tài nguyên thiên nhiên, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái (Xem hình 3). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tập trung vào phát triển nuôi trồng các loại thủy sản có lợi thế (như tôm, cá tra, nhuyễn thể...) để phục vụ thị trường xuất khẩu.
Hình 3. Cơ cấu diện tích các loại cây trồng theo thời gian
Chuyển dịch cơ cấu loại hình tổ chức sản xuất kinh tế nông thôn theo hướng mở rộng quy mô sản xuất và tăng tỷ trọng phi nông nghiệp dưới tác động của toàn cầu hóa và đô thị hóa. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn của thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, quy mô và phương thức sản xuất nông nghiệp đã đổi mới theo hướng tập trung và chuyên nghiệp hơn. Số doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX) tăng nhanh, số hộ ngày càng giảm. Năm 2020, cả nước có 7.471 doanh nghiệp nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản), tăng 94,25% so với năm 2016; số HTX nông nghiệp là 7.418 HTX, tăng 6,8% so với năm 2016. Chỉ tính riêng cho năm 2023, hơn 1.400 doanh nghiệp đã được thành lập mới, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp lên trên 16.100 doanh nghiệp. Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn tiếp tục tăng đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, như Nafoods, TH, Dabaco Việt Nam, Masan, Lavifood, Công ty Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Công ty Thương mại và Đầu tư Biển Đông(4). Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn gần đây, số hộ nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm. Tỷ lệ số hộ nông dân trong tổng số hộ gia đình ở nông thôn cũng giảm. Nếu như năm 2016, số hộ nông dân chiếm 58,05% trong tổng số hộ nông thôn thì đến năm 2020, tỷ lệ này còn 53,96%. Sản xuất nông nghiệp đang dần được thay thế bằng các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp; tỷ trọng hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các ngành phi nông nghiệp trong tổng số hộ nông thôn tăng từ 42,49% năm 2011 lên 52,08% năm 2016 và 59,22% năm 2020(5).
Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của nước ta tăng nhanh qua các năm, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Đây là kết quả của việc thúc đẩy đổi mới cơ cấu và phương thức sản xuất cùng với nỗ lực đàm phán, tận dụng cơ hội mở rộng thị trường do toàn cầu hóa mang lại. Nếu như năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu USD, thì gần đây, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông, lâm, thủy sản hàng đầu thế giới. Năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 41,53 tỷ USD, gấp 85 lần so với năm 1986 trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát trên thế giới. Đáng chú ý, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao kỷ lục trên 53,22 tỷ USD; trong đó, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, 8 mặt hàng có kim ngạch trên 2 tỷ USD, 7 mặt hàng trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ; tôm; rau quả; hạt điều; gạo, cao-su, cà-phê)(6). Cán cân thương mại liên tục xuất siêu và năm 2024, dự báo xuất khẩu nông sản đạt mức rất cao - 60 tỷ USD.
Năng lực cạnh tranh và vị thế của ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng được nâng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(7), lợi thế cạnh tranh so sánh mặt hàng nông sản thế mạnh của Việt Nam với các “đối thủ” lớn trên thị trường thế giới qua phân tích đa chỉ tiêu, Việt Nam đứng thứ 2 (53 điểm), sau Bra-xin (67 điểm). Đây là thành công của đổi mới sáng tạo trong công tác mở cửa thị trường, chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch; doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động đưa sản phẩm nông sản vào sâu hơn chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều mặt hàng của Việt Nam được xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Nỗ lực đàm phán thương mại quốc tế thành công với nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới được ký kết góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam sang trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, nhiều nông sản đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu về tiêu chuẩn hàng hóa, ngay cả ở các thị trường khó tính, nhưng đem lại giá trị gia tăng cao, như thị trường Mỹ (vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, vú sữa); Ô-xtrây-li-a (vải thiều, xoài, quả có múi); Nhật Bản (thanh long, vải thiều, nhãn lồng, thịt gà),... Việc cắt giảm thuế quan theo các điều ước thương mại song phương, đa phương với cam kết mở cửa thị trường cho sản phẩm, dịch vụ hàng hóa Việt Nam theo hướng minh bạch, công khai, đã mở ra một triển vọng to lớn cho việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản. Cũng theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các thị trường có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân cao là Mỹ (tăng bình quân 14,4%/năm), Trung Quốc (7,5%/năm), Hàn Quốc (8,2%/năm)(8),...
Đa dạng hóa hình thức tiêu thụ sản phẩm nông sản. Sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng chuyển đổi số, đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đã góp phần tạo tiền đề và làm động lực cho ngành nông nghiệp thay đổi phương thức tổ chức sản xuất và mở rộng thị trường. Nhiều nông sản hàng hóa (bao gồm cả lâm sản và thủy sản) cùng với hình thức tiêu thụ truyền thống cũng đã tham gia các chuỗi cung ứng trên các sàn thương mại điện tử. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thương mại điện tử đã bùng nổ và hiện có nhiều sàn điện tử lớn tham gia kinh doanh nông sản. Giai đoạn này cũng ghi nhận vai trò quan trọng của thị trường nội địa khi nông sản trong nước gặp khó khăn trong việc xuất khẩu(9). Số liệu của Cổng thông tin điện tử chuyển đổi số quốc gia năm 2023 cho thấy, tính đến tháng 1-2022, đã có khoảng 5,2 triệu hộ sản xuất nông nghiệp có tài khoản trên sàn thương mại điện tử (với khoảng 1,1 triệu tài khoản đủ điều kiện giao dịch mua bán trên sàn); riêng hai sàn thương mại điện tử postmart.vn và voso.vn đã có gần 58 nghìn sản phẩm nông nghiệp được đưa lên sàn với hàng chục nghìn giao dịch đã được thực hiện thành công(10).
Thu hoạch chôm chôm chín ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn